Ba tôi và các cháu trong vườn nhà ngày Thượng thọ 80 tuổi năm 2010 |
Đôi lời thưa cùng quí vị,
Năm nay năm 2012, vừa đúng 40 năm “Chiến dịch xuân hè 1972” (Việt Nam Cộng hòa gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”, Mỹ gọi là “Easter Offensive – Cuộc tấn công Lễ Phục Sinh”). Một sự kiện lớn báo chí đăng tải lúc bấy giờ là “Người trung tá quân đội Sài Gòn phản chiến năm 1972”.
Ba tôi là một Sĩ quan quân đội Nhân dân Việt Nam là người trong cuộc của sự kiện này. Ba thuộc TRUNG ĐOÀN PHÁO BÔNG LAU, chiến dịch bắt đầu từ tháng Giêng (tháng 2 năm 1972). Trong chiến dịch này, ở trận đánh trại Caroll. Ba được lệnh thay cho ông Th. (ba ko nói tên vì nói rằng "còn con cái ông ấy khi nghe về điều này") đã đi họp vào đêm trước chuẩn bị vào trận hỏa lực pháo binh căn cứ 241 và lệnh cho ba thay vị trí ông trên đài quan sát. Các chi tiết về số, loại pháo, đạn và một số chi tiết diễn biến, thương vong...mà ba còn nhớ kể cho tôi nghe tôi sẽ kể vào tháng 3/2012 -40 năm trận đánh này.
Ba năm nay đã ngoài 80 tuổi. Ba đã yếu lắm và phải ngồi xe lăn có con cái chăm sóc hàng ngày. Tôi là con thứ 2 trong 6 anh chị em con của ba mẹ. Tôi năm nay ngoài 50 là bác sĩ, chưa biết chiến trường, thương vong khói đạn là gì ngoài mấy đợt tập quân sự thời sinh viên, có bắn 3 viên đạn thật ở trường bắn trong đợt tập ấy vào bia đạt 10-9-9 điểm, chỉ có một lần bị bắt vì đi biểu tình chống Trung Quốc gây hấn biển Đông tại Quận 1 TP. Hồ Chí Minh.
Sau khi ở chiến trường Căm pu chia, ba là Chủ nhiệm pháo Binh mặt trận 579 là mặt trận quan trọng giải phóng Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng Pôn-pốt về nhà năm 1987. Cả đất nước đều lấy năm 1975 là năm hòa bình lập lại, gia đình sum họp. Nhưng gia đình tôi thì năm 1987 này mới chính thức là năm sum họp gia đình.
Chiến trường liên miên, từ Cămpuchia trở về vẫn mang hai căn bệnh: Sốt rét và bệnh ngoài da. Bệnh sốt rét cuối cùng cũng hết. Căn bệnh viêm nang lông ở chân tóc của ba khiến ở chiến trường ba đã già đầu tóc bạc thế mà bị cạo trọc vì chẩn đoán nghi là nấm. Chữa mãi cũng chẳng khỏi, người ta chẩn đoán ba bị ngứa do “căng thẳng chiến trường và bị tự kỷ ám thị”. Họ phát cho ba hàng trăm viên amynazin- một loại thuốc chữa bệnh tâm thần phân lập. Tôi về nhà lấy ba-lô quần áo ba ra giặt rũ, diệt rệp, thấy bên túi cóc nhỏ gói thuốc ấy. Tôi hỏi và ba kể. Căn bệnh ngứa da đầu ấy được tôi xét nghiệm và chữa khỏi trong 1 tuần. Thế là hoàn thành bổn phận tấm bằng bác sĩ vi trùng!, tôi thầm nghĩ.
Ba vẫn thường la hét trong giấc ngủ mỗi đêm, mẹ không dám nằm riêng sợ đêm ba ngã. Bà mắc bệnh tim sau thời gian dài như vậy.
Ở Việt Nam, người lính không mắc “Hội chứng chiến tranh”, ngoài những thân hình tàn phế đập vào mắt không thể phủ nhận, những tổn thương tinh thần bi thảm của những tâm hồn người lính có hiểu biết, có lòng trắc ẩn, hay nhạy cảm... là những điều không hiểu được và được gọi là: bất mãn, thần kinh...Có thân thì lo, ráng mà chung sống với nỗi lòng không thể xẻ chia, ráng giữ cho nó khỏi bật máu mỗi khi có điều gì chạm vào nỗi đau ấy. Nếu đổ bệnh thì gia đình lo. Người lính ở chiến trường về bệnh tật ốm đau quặt quẹo là đương nhiên!
Đến cơ quan thỉnh thoảng vẫn nghe mắng nhiếc: “Thế hệ chúng tôi xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (họ chưa từng nửa ngày chiến trường vì còn học ở nước ngoài để về phục vụ (nay thực tế chỉ là cho túi tiền của họ) lúc đất nước thời bình).
Ba vẫn thường la hét trong giấc ngủ mỗi đêm, mẹ không dám nằm riêng sợ đêm ba ngã. Bà mắc bệnh tim sau thời gian dài như vậy.
Ở Việt Nam, người lính không mắc “Hội chứng chiến tranh”, ngoài những thân hình tàn phế đập vào mắt không thể phủ nhận, những tổn thương tinh thần bi thảm của những tâm hồn người lính có hiểu biết, có lòng trắc ẩn, hay nhạy cảm... là những điều không hiểu được và được gọi là: bất mãn, thần kinh...Có thân thì lo, ráng mà chung sống với nỗi lòng không thể xẻ chia, ráng giữ cho nó khỏi bật máu mỗi khi có điều gì chạm vào nỗi đau ấy. Nếu đổ bệnh thì gia đình lo. Người lính ở chiến trường về bệnh tật ốm đau quặt quẹo là đương nhiên!
Đến cơ quan thỉnh thoảng vẫn nghe mắng nhiếc: “Thế hệ chúng tôi xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (họ chưa từng nửa ngày chiến trường vì còn học ở nước ngoài để về phục vụ (nay thực tế chỉ là cho túi tiền của họ) lúc đất nước thời bình).
Nay mỗi lần về thăm nhà nhìn ba trên chiếc xe lăn, biết là tuổi cao nhưng lúc nào trong lòng cũng nghẹn ngào. May còn có mẹ và cô dâu nhà chăm sóc ba hết mực.
Tháng 12 năm 2011 tôi có việc ra Huế, tôi đã tìm đến nhà ông Phạm Văn Đính nhưng được tin ông đã mất. Hỏi thăm nghe nói có con gái ông là chủ khách sạn Hướng Dương ở đường Hai Bà Trưng, đến nơi cô lễ tân nói khách sạn đã đổi chủ được hơn một năm. Đi lòng vòng hỏi thăm nghe nói bên Tây Lộc. Ngồi một hồi, lăn tăn nghĩ có lẽ ông không muốn nhắc lại chuyện này nên việc như không thuận. Đành thôi. Muốn có vài kiểu ảnh của gia đình ông nhưng chưa có duyên.
Tôi viết lại bài viết của ba đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, Cơ quan Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Số 222 tháng 10-2004. Tôi biết ba muốn thông tin sự thực đã diễn ra như thế nào nó quan trọng cho ít nhất một con người trong cuộc luôn bị phán xét. Tôi cũng vậy, mặc dù không được mạnh mẽ nhưng vẫn luôn muốn biết sự thật.
Dưới đây là bài viết nguyên bản gốc của người trong cuộc, ba tôi Hồ Văn Duyệt, nguyên giáo viên Trường Sĩ Quan Pháo Binh, Quân đội Nhân dân Việt Nam, mật danh Sao Hôm, người trực tiếp “tiếp nhận nguyện vọng và chứng kiến việc làm đó của trung tá quân đội Sài Gòn, anh Phạm Văn Đính; tôi muốn cung cấp một số chi tiết về sự kiện trên, ghi lại mấy nét hào hung của mùa xuân năm 1972, quân dân ta giải phóng tỉnh Quảng Trị và hành động chính xác kịp thời để cứu mình, cứu đồng đội, lập công theo chính nghĩa của một trung tá quân đội Sài gòn lúc bấy giờ”.
Các bài tham khảo
Bài viết này dưới đây không phản ánh trung thực trận đánh dẫn đến sự kiện hàng binh. Hồng Nhung
Bản gốc
Người trung tá quân đội Sài Gòn phản chiến năm 1972
Số báo An ninh thế giới ra ngày 13.6.2002 có đăng lời xin lỗi lời của tác giả bài báo "Về người trung tá quân đội Sài Gòn phản chiến năm 1972". Sự kiện này là một kỷ niệm kháng chiến của tôi nên tôi tò mò muốn biết bài báo đó viết những gì. Tôi rất ngạc nhiên vì mới có 30 năm, nhân chứng lịch sử vẫn còn nhiều mà sự kiện lịch sử đã "thất bản" đến mức độ như vậy.
Sư đoàn 324 là đơn vị chủ yếu đánh chiếm căn cứ Caroll, Tư lệnh trưởng sư đoàn lúc đó là đại tá Hoàng Đan. Trung đoàn 38, pháo binh dự bị chiến lược của Bộ, Trung đoàn trưởng lúc đó là trung tá Nguyễn Cao Sơn.
Trong tủ lưu trữ tài liệu của các đơn vị trên hẳn có đầy đủ hồ sơ về cuộc tiến công chiến lược năm 1972, nhưng mấy ai đọc được các tài liệu đó. Bài báo thì khắp nơi đã đọc, những người đọc đó biết có lời xin lỗi không, dù có biết cũng không rõ sự việc đúng là như thế nào. Ví thử đây là một sáng tác hư cấu thì không nói làm gì, viết về người thật việc thật mà sơ suất chẳng những có hại cho chính sách mà còn gây lúng túng khó xử thậm chí mang tiếng cho người trong cuộc.
Riêng tôi người may mắn tiếp nhận nguyện vọng và chứng kiến việc làm đó của Trung tá quân đội Sài Gòn, anh Phạm Văn Đính; tôi muốn cung cấp một số chi tiết về sự kiện trên, ghi lại mấy nét hào hùng của mùa xuân năm 1972, quân dân ta giải phóng Quảng Trị và hành động chính xác kịp thời để cứu mình, cứu đồng đội, lập công theo chính nghĩa của một trung tá quân đội Sài Gòn lúc bấy giờ.
Hồi đó tôi là giáo viên Trường Sĩ quan Pháo binh được phái đi phục vụ cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Tôi được đi cùng trung đoàn pháo binh 38, chi viện cho sư đoàn 324, tấn công ở hướng chủ yếu, theo đường số 9 từ hướng Tây xuống Đông Hà. Mục tiêu đầu tiên là cụm điểm tựa kiên cố do trung đoàn 56, sư đoàn 3 đóng giữ. Cụm cứ điểm gồm có căn cứ Caroll là căn cứ chỉ huy của trung đoàn và là căn cứ hỏa lực của pháo binh, vòng ngoài có các căn cứ 241; 241 cũng như Đầu Mầu, Ba Hồ, Động Toàn là tên các điểm cao, các căn cứ đó được ghi trên bản đồ.
Cà Roòn (Caroll theo tiếng gọi dân gian) là căn cứ pháo binh có hỏa lực ghê gớm án ngữ tây Quảng Trị, 18 khẩu 155ly mỗi đầu đạn nặng gần 50kg, đặc biệt ở đây có 4 khẩu 175ly tự hành tối tân trong số 08 khẩu Mỹ vừa mới trang bị cho quân đội ngụy để "Việt Nam hóa chiến tranh". Pháo này dùng loại đạn tăng tầm có thể bắn xa trên 40km. Đại đội 4 khẩu 175ly ở đây được mệnh danh "Vua chiến trường", đại đội kia được gọi là "Thần sấm sét".
Trước cuộc tiến công xuân 1972 của ta, tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu lên tận Cà Roòn trực tiếp động viên khích lệ binh sĩ.
Mùa xuân là mùa chiến dịch của ta, theo cách phòng ngự từ xa, địch chốt giữ những điểm cao quanh căn cứ để phát hiện sớm lực lượng ta, do đó việc đặt đài quan sát chỉ huy pháo binh rất khó khăn. Để giữ bí mật, đến gần giờ nổ súng sư đoàn mới cho đánh chiếm điểm cao Không tên để bố trí đài quan sát chỉ huy pháo binh. Tôi đi cùng bộ phận đài quan sát nên được chia xẻ với anh em chĩu đựng hỏa lực pháo binh của căn cứ 241 chụp lên mổm đồi Không tên ta vừa chiếm được. Hơn một tiếng đồng hồ chịu đựng tiếng đạn đại bác rời xèo xèo quanh mình như những nhát dao cứa vào dây thần kinh, đợi giờ nổ súng, không thể bắn trả được.
- Bão táp! Bão táp! Bão táp! Chiến sĩ thông tin VTĐ (vô tuyến điện) reo lên
Những vệt pháo hiệu xanh đỏ vút lên không trung.
Khẩu lệnh pháo binh nổ súng, tín hiệu mở màn chiến dịch đã phát ra!
- Bão táp! Bão táp! Bão táp!
Phía sau lưng chúng tôi từng hồi đại bác của ta dồn dập như trống hội. Trái phá xé không khi rú trên không trung như những đàn chim sắt lao lên xung trận. các mục tiêu chìm trong ánh chớp, khói bụi và tiếng nổ rung chuyển núi rừng.
Các căn cứ chết lặng đi…
Mấy ngày đầu, chiến đấu thuận buồm xuôi gió như cuộc diễn tập. Điểm tựa tiền tiêu Đầu Mầu bị xóa sổ, ban đêm đặc công đánh chiếm Ba Hồ không khó khăn lắm. Đánh Động Toàn quân dân ta vấp phải hỏa lực pháo binh dày đặc của căn cứ 241.
Chúng tôi quan sát, điều chỉnh pháo cho các ánh chớp các đụn khói tập trung vào các trận địa pháo ở 241. Không còn bức tường lửa ngăn chặn, bộ binh ta nhanh chóng làm chủ Động Toàn.
Đồng chí Trung đoàn phó pháo binh chỉ huy ở đài quan sát lên Sở chỉ huy Sư đoàn họp, ủy nhiệm cho tôi thay thế tiếp tục thực hiện kế hoạch hỏa lực.
Hôm nay nhiệm vụ chính của hỏa lực pháo binh là chi viện cho bộ binh đánh chiếm căn cứ 241 (carroll). Đợt bắn mãnh liệt vào sở chỉ huy, trận địa pháo, khu trung tâm thông tin đã xong. Chúng tôi thực hiện giai đoạn bắn gọi là giám thị nhằm kiềm chế không cho các trận địa pháo hoạt động, duy trì sự hiện diện liên tục của hỏa lực làm cho tinh thần địch suy sụp, không để địch có điều kiện hồi phục và ngăn cản chúng theo dõi hành động bao vây áp sát của chúng ta.
Lúc này căn cứ pháo 241 hoàn toàn bị tê liệt không phản ứng được chút gì. Địch chỉ còn cách phá rối liên lạc vô tuyến điện của pháo binh ta. Khẩu lệnh ta hô từ đài quan sát xuống trện địa chúng làm cho sai lạc đi, ta hô tăng chúng hô giảm, ta hô sang phải chúng hô sang trái v.v… và chúng tạo tiếng ồn ào làm nhiễu loạn trong vô tuyến điện. May mà anh em chiến sĩ ở đài quan sát toàn là dân đại học đi nghĩa vụ, các em rất thông minh, sáng tạo, khắc phục được mọi sự cố kỹ thuật và rất dũng cảm, không kể bom đạn mỗi khi phải đưa máy lên khỏi công sự để dễ nhận tín hiệu hơn.
Một chiến sĩ VTĐ báo cáo với tôi:
- Có một thằng nó yêu cầu gặp thủ trưởng.
- Nó phá rối đấy chứ gặp gì, mặc kệ nó.
Một lát sau chiến sĩ lại báo cáo:
- Thắng đó xưng là trung tá chỉ huy trưởng xin gặp Sao Hôm
Sao Hôm là mật danh đài quan sát chỉ huy. Theo cách xưng hô tôi đoán có lẽ là một viên sĩ quan, tôi cầm máy:
- A lô! Tôi là Sao Hôm đây! Các anh gặp có việc gì.
- Tôi, trung tá Phạm Văn Đính, chỉ huy trưởng trung đoàn 56 xin được gặp cấp chỉ huy cao nhất. Xin ông cho biết danh tính cấp bậc.
Nghe câu nói đó tôi nghĩ anh này chắc được huấn luyện rất chính qui từ bên Mỹ. Riêng tôi, chưa từng dự kiến đối thoại với địch nên lúng túng không biết xưng hô thế nào.
- Chúng tôi không có thói quen xưng hô tên tuổi cấp bậc với đối phương trong lúc tác chiến, anh gọi tôi là Sao Hôm là được rồi. Tôi không phải là cấp chỉ huy cao nhất nhưng có thể trả lời những gì anh cần hỏi, nếu quá quyền hạn tôi sẽ chuyển đạt lên cấp trên.
- Tôi đề nghị các ông dừng hỏa lực trong 1 giờ, chúng tôi muốn thương lượng.
Tôi dùng điện thoại báo cáo lên cấp trên, sư đoàn điện xuống “Anh có thể gọi họ là ông, anh bảo nó đầu hàng đi chứ còn thương lượng gì”.
Tôi trả lời cho viên trung tá chỉ huy trưởng:
- Tôi nghĩ đề nghị của ông không thích hợp, các ông đã mất Đầu Mầu, Ba Hồ, Động Toàn rồi. Lữ đoàn thiết giáp lên giải vây cho các ông đã bị đánh tan, chạy lui rồi. Đông Hà cũng sắp mất. Chắc ông cũng đã nghe tiếng súng máy gần kề rồi. các ông hạ vũ khí ngừng chiến đấu là tốt nhất. các ông nên đầu hàng đi.
- Có đầu hàng cũng cần thảo luận các điều kiện chứ!
- Không cần thảo luận đâu. Ông có biết chính sách 10 điểm của Mặt trận Giải phóng Miền Nam không?
- Tôi có biết
- Chúng tôi chấp hành đầy đủ chính sách 10 điểm đó.
- Nhưng tôi cũng cần triệu tập các sĩ quan dưới quyền, họ chỉ huy từng bộ phận rải rác khắp nơi và cần thời gian để họp.
Cấp trên vẫn theo dõi cuộc nói chuyện trên VTĐ của tôi, lúc này gọi xuống hướng dẫn cho tôi một số thủ tục.
Tôi nói với trung tá Đính:
- Vậy thì tôi đồng ý ngừng hỏa lực trong 1 giờ như yêu cầu của ông. Còn yêu cầu của chúng tôi là ông cho kéo cờ trắng lên cột cờ trung tâm căn cứ trước khi ngừng hỏa lực. sau khi ngừng hỏa lục được 30 phút, một nửa số quân của ông phải ra khỏi công sự, lên mặt đất, không mang vũ khí.
- Tôi thỏa thuận và đề nghị ông dừng hỏa lực, ông cho treo cờ đi.
Qua ống nhòm chúng tôi thấy có 1 người lính trèo lên nóc lô cốt phía Tây phủ lên đó một tấm vải trắng rồi vội vàng tụt xuống hầm.
Một lát trung tá Đính gọi tôi:
- Ông đã thấy cờ trắng trên cột cờ chưa?
- Tôi thấy không có, nhưng có một binh sĩ phủ tấm vải trắng lên nóc lô cốt phía Tây.
Im lặng một lát, tôi nghĩ chắc là người lính quá sợ không dám rời xa công sự chạy ra cột cờ, còn chỗ ông Đính thì không thấy được cột cờ chứ không có sự gian dối gì.
- Thế cũng được. Bây giờ chúng ta bắt đầu thực hiện ngừng hỏa lực và thực hiện các việc trong lúc ngừng hỏa lực.
Tôi và trung tá Đính thống nhất đồng hồ, xác định thời điểm bắt đầu ngừng hỏa lực và thời điểm hết hạn ngừng hỏa lực theo giờ Hà Nội và giờ Sài Gòn. Sau đó không lâu trung tá Đính báo cáo cho tôi là thuộc hạ ông cũng đồng tình hạ vũ khí về với Chính phủ Cách mạng.
Theo sự hướng dẫn của trên, tôi thống nhất với ông Đính, bên ông cử một phái đoàn gồm một sĩ quan cấp đại úy đi cùng 2 người cầm cờ trắng đi ra cổng hướng Đầu Mầu, ở đó có đại diện của ta đón tiếp. Tôi chuyển lời cấp trên cho ông Đính rằng nếu ông bắt được 2 cố vấn Mỹ của căn cứ cùng theo thì sẽ được trọng thưởng. Ông Đính nói họ tình nguyện đi theo ông.
Binh sĩ căn cứ 241 lần lượt lên khỏi công sự, ban đầu còn lẻ tẻ dè dặt nhưng rồi mỗi lúc một nhiều và không khí trở nên nhộn nhịp nô nức.
Đột ngột trinh sát hướng Đông báo về đài chỉ huy, có 2 trực thăng bay rất thấp từ hướng Đông lên. Hàng trăm con người đã bộc lộ trên mặt đất, không thể vì 2 tên Mỹ mà trút pháo xuống căn cứ được, chúng bay thoát.
Binh sĩ của căn cứ được hướng dẫn đi về nơi qui định, tuy không bắt buộc nhưng mỗi người đều tạo ra một lá cờ trắng cầm tay.
Sau khi binh sĩ ra khỏi căn cứ, trung tá Đính chào từ biệt tôi. Trước khi cắt liên lạc VTĐ trung tá cẩn thận nhắc “Tôi đã ra khỏi hầm chỉ huy, ông hãy lệnh cho pháo thủ ra khỏi pháo”.
Ở trên tôi đã kể rằng khi hỏi anh Đính có biết chính sách 10 điểm của mặt trận không, anh trả lời không chút ngập ngừng, tôi có biết. Chắc người sĩ quan này hẳn từng nghĩ suy về cuộc kháng chiến của dân tộc và lương tâm từng trăn trở. Khi nói chuyện trên VTĐ anh Đính cho biết cha anh người Quảng Ngãi. Từ ngày khởi nghĩa đến cuối năm 1954, chín năm ấy Quảng Ngãi sống dưới chính thể Dân Chủ Cộng hòa. Trung tá Đính quyết định không chống cự lại quân giải phóng không chỉ vì áp lực quân sự lúc bấy giờ mà ý định đó phải chăng nảy mầm từ trước nữa. Quân đội nhân dân ta thấu hiểu điều đó và đánh giá cao tấm gương cho các sĩ quan trong hang ngũ quân đội Sài Gòn lúc bấy giờ.
Nha Trang tháng 10, năm 2004.
Hồ Văn Duyệt
Ba Hồ Văn Duyệt, đang bắt tay trung tá Vĩnh Phong, cấp phó của ông trung tá Phạm Văn Đính đối phương, |
Hình sưu tập được trện mạng, chưa rõ ai là tác giả bức ảnh và hình này chụp lại ở sách này. Xin cảm ơn rất nhiều tác giả bức ảnh có ba đang ở chiến trường
-------------------
Có thể tham khảo Sách : "Vietnam's forgotten army: heroism and betrayal in the ARVN" của tác giả Andrew A. Wiest. (trong sách viết về sự kiện này trang phần "The Making of a Traitor " từ trang 229-272, nhưng không có bức ảnh trên)
Bức ảnh do bên cách mạng chụp. Theo như ba tôi kể thì hàng binh sẽ "đi ra cổng hướng Đầu Mầu, ở đó có đại diện của ta đón tiếp". Có lẽ đấy là vị trí của chiếc ảnh này.
Bức ảnh do bên cách mạng chụp. Theo như ba tôi kể thì hàng binh sẽ "đi ra cổng hướng Đầu Mầu, ở đó có đại diện của ta đón tiếp". Có lẽ đấy là vị trí của chiếc ảnh này.
Bài đăng trên báo An Ninh Thế Giới số 277 ra ngày 2-5-2002 : "Về người trung tá quân đội Sài Gòn phản chiến...". Tác giả Hà Đăng Luân
Bài viết trên báo An Ninh Thế Giới số 277 ngày 2-5-2002 |
Phần thông tin sai lệch nghiêm trọng cho cá nhân ông Đính |
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Các bài tham khảo
Bài viết này dưới đây không phản ánh trung thực trận đánh dẫn đến sự kiện hàng binh. Hồng Nhung
N+3 MỘT NGÀY OANH LIỆT
Trích hồi ký của đại tá Cao Sơn, nguyên trung đoàn trưởng trung đoàn 38, pháo binh Bông Lau.
Đêm hôm trước ngày 1 tháng 4, đã khuya, trung đoàn phó Thông từ trên đài chỉ huy còn báo về “Có một tên địch nói xen vào máy bộ đàm của ta, lải nhải suốt từ sáng đến giờ, khẩn thiết xin được gặp ông chỉ huy cao nhất của Bông Lau”. Tôi nói với anh Thông “Anh tiếp xúc với nó đi, hỏi nó là ai, xin gặp về việc gì”.
.Sáng ngày 2 tháng 4. Ngày N+3, khoảng 8 giờ, anh Thông điện về sôi nổi: “Trung đoàn trưởng, tên đó tự nhận là Phạm Văn Đính, trung tá chỉ huy trung đoàn 56 đóng ở căn cứ 241 xin được gặp ông chỉ huy đoàn Bông Lau đề nghị ngừng bắn để đưa đơn vị về với cách mạng”.
Lập tức tôi điện trao đổi với anh Hoàng Đan, sư đoàn trưởng sư đoàn 304, đang phối hợp chiến đấu về sự kiện trên. Anh Hoàng Đan nói “Anh trực tiếp khuyến khích nó ra hàng, chỉ huy sẽ được ưu đãi sử dụng”.
Chúng tôi họp ngay thường vụ Đảng ủy trung đoàn gồm có anh Trương Linh Huyên chính ủy trung đoàn, anh Chu Sỹ Tính phó chính ủy và tôi. Ngoài ra có anh Đỗ Son chủ nhiệm chính trị và nhà báo quân đội Nguyễn Thắng đi theo trung đoàn từ đầu chiến dịch tham dự.
Ban thường vụ nhấn mạnh phải đề phòng âm mưu phản trắc, đặt ra quy định chặt chẽ buộc chúng thi hành; liên hệ ngay với sư đoàn 304 chuẩn bị sẵn một bộ phận tiếp nhận đầu hàng.
Khoảng 12 giờ, tôi trực tiếp cầm tổ hợp máy bộ đàm bắt liên lạc với Đính. Tôi hỏi: “Anh là ai? yêu cầu gặp người chỉ huy đoàn Bông Lau về việc gì?”. Một giọng Huế gấp gáp nhưng khá rõ: “Tôi là Phạm Văn Đính, trung đoàn trưởng chỉ huy trung đoàn 56 ở căn cứ 241 đề nghị ông ngừng bắn, tôi sẽ dưa toàn đơn vị ra với cách mạng”.
Tôi nói: “Tôi là chỉ huy đoàn Bông Lau đang nói chuyện với anh đây. Các anh chỉ có một con đường đầu hàng, nếu không đêm nay sư đoàn 304 cùng đoàn Bông Lau sẽ tấn công san bằng căn cứ 241. Chúng tôi hoan nghênh các anh về với cách mạng. Yêu cầu tuân thủ nghiêm những quy định sau: 1/ Kéo cờ trắng lên. 2/ Bắt hai tên cố vấn Mỹ cùng ra hàng. 3/ Để nguyên vũ khí phương tiện chiến đấu tại chỗ. Cả chỉ huy và binh sỹ đứng trên mặt đất, xếp hàng đôi đi theo con đường duy nhất tới Đầu Mầu, sẽ có người đón.. Chúng tôi ngừng bắn 30 phút để các anh chấp hành những quy định trên.”.
Đến đây Đính lại nói thảng thốt: “Ba mươi phút chúng tôi không thể đủ thời gian cử người đến từng căn hầm để thuyết phục đơn vị đầu hàng.. Lúc này hệ thống đường dây điện thoại đã bị mảnh đạn pháo băm nát.”. “Vậy cần bao nhiêu”. “Xin ông một tiếng”. “Thôi 45 phút, chấp hành đi. Đúng 13g30 các anh phải ra khỏi hầm”.
Đến 13g30 chưa thấy tên nào xuất hiện trên mặt đất, để răn đe tôi ra lệnh Bông Lau chú ý: Z39 (căn cứ Mai Lộc) 10 phát nạp đạn. Khoảng năm phút sau vẫn chưa thấy tên nào xuất hiện trên mặt đất, tôi hô “Bắn!...” Căn cứ Mai Lộc sụp đổ, bùng cháy dưới cụm đạn tập trung của 240 viên 122mm, 130mm.
Vài phút sau cả ba đài quan sát của trung đoàn và tiểu đoàn đều reo lên và báo về chỉ huy sở, địch hàng rồi. Hàng trăm tên cầm cờ trắng ra khỏi hầm đi về phía Đầu Mầu. Đúng lúc lộn xộn hỗn loạn đó, hai chiếc u-ti-ti đỏ chót như hai con chuồn chuồn ớt xuất hiện từ Đông Hà bay sát đường số 9 leo lên sườn điểm cao 241. Chúng chỉ nâng nhẹ độ cao lướt qua hàng rào đậu xuống trước hầm chỉ huy gần cột cờ. Hai tên cố vấn Mỹ tay xách cặp nhẩy lên máy bay.
Tôi điện báo anh Hoàng Đan, “trực thăng đang cứu cố vấn Mỹ, anh lệnh cho bắn đi”. “Sao cậu không dùng cao xạ (37mm) mà bắn”. “Cao xạ của trung đoàn đều đang ở gần trận địa pháo, có trông thấy đâu mà bắn”. “Khổ quá! (Một tiếng chát đập tay xuống bàn của anh Hoàng Đan), bộ binh xe tăng còn ở sau cậu (sở chỉ huy trung đoàn) làm sao bắn được. Tôi gọi điện cho Đính “tại sao các anh để cố vấn Mỹ chạy thoát. Đính nói ”Lộn xộn, căng thẳng quá, đầu óc tôi mụ rồi, tôi không biết làm thế nào nữa. Thực ra Đính không dám bắt cố vấn Mỹ vì còn phải nghĩ đến vợ con đang còn ở Huế. Chúng xếp hàng trật tự đi về phía Đầu Mầu như quy dịnh. Tôi trao đổi với trung đoàn phó Ngô Đức Nghĩa đưa một bộ phận đi xe xích ATC lên Đầu Mầu tiếp nhận đầu hàng. Ngay đêm đó, trung đoàn phó Thông cùng bộ phận trinh sát ở đài quan sát đã thực hiện ý định của tôi vào căn cứ 241 lấy ra ba thứ: chiếc máy bộ đàm PRC25 mà Đính đã xin hàng, tấm bản đồ chỉ huy và khẩu súng ngắn của Đính.
Ngay sau đó, khoảng 3 giờ chiều tôi được anh Quý Hải từ đài chỉ huy tiểu đoàn 2 báo về ”Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 tại căn cứ Mai Lộc đang tháo chạy toán loạn về phía Cùa, đề nghị cho bắn chặn. Tôi nói không được bắn, Cùa còn đông dân, báo cho trung đoàn 66 vào chiếm lĩnh ngay Mai Lộc.
Khung cảnh chiến trường chiều 2 tháng 4 thật hoành tráng, sau bốn ngày đêm chiến đấu, trung đoàn pháo binh 38 đã cùng sư đoàn bộ binh 304 đập nát tuyến phòng ngự cơ bản chủ yếu của quân đoàn 1 Ngụy, mở toang cánh cửa phía tây để quân đội ta tiếp tục đợt hai chiến dịch tiến công Phượng Hoàng, Đông Hà, Ái Tử, La Vang, Tích Tường.giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.
Thật là một ngày chiến đấu oanh liệt.
Đêm hôm trước ngày 1 tháng 4, đã khuya, trung đoàn phó Thông từ trên đài chỉ huy còn báo về “Có một tên địch nói xen vào máy bộ đàm của ta, lải nhải suốt từ sáng đến giờ, khẩn thiết xin được gặp ông chỉ huy cao nhất của Bông Lau”. Tôi nói với anh Thông “Anh tiếp xúc với nó đi, hỏi nó là ai, xin gặp về việc gì”.
.Sáng ngày 2 tháng 4. Ngày N+3, khoảng 8 giờ, anh Thông điện về sôi nổi: “Trung đoàn trưởng, tên đó tự nhận là Phạm Văn Đính, trung tá chỉ huy trung đoàn 56 đóng ở căn cứ 241 xin được gặp ông chỉ huy đoàn Bông Lau đề nghị ngừng bắn để đưa đơn vị về với cách mạng”.
Lập tức tôi điện trao đổi với anh Hoàng Đan, sư đoàn trưởng sư đoàn 304, đang phối hợp chiến đấu về sự kiện trên. Anh Hoàng Đan nói “Anh trực tiếp khuyến khích nó ra hàng, chỉ huy sẽ được ưu đãi sử dụng”.
Chúng tôi họp ngay thường vụ Đảng ủy trung đoàn gồm có anh Trương Linh Huyên chính ủy trung đoàn, anh Chu Sỹ Tính phó chính ủy và tôi. Ngoài ra có anh Đỗ Son chủ nhiệm chính trị và nhà báo quân đội Nguyễn Thắng đi theo trung đoàn từ đầu chiến dịch tham dự.
Ban thường vụ nhấn mạnh phải đề phòng âm mưu phản trắc, đặt ra quy định chặt chẽ buộc chúng thi hành; liên hệ ngay với sư đoàn 304 chuẩn bị sẵn một bộ phận tiếp nhận đầu hàng.
Khoảng 12 giờ, tôi trực tiếp cầm tổ hợp máy bộ đàm bắt liên lạc với Đính. Tôi hỏi: “Anh là ai? yêu cầu gặp người chỉ huy đoàn Bông Lau về việc gì?”. Một giọng Huế gấp gáp nhưng khá rõ: “Tôi là Phạm Văn Đính, trung đoàn trưởng chỉ huy trung đoàn 56 ở căn cứ 241 đề nghị ông ngừng bắn, tôi sẽ dưa toàn đơn vị ra với cách mạng”.
Tôi nói: “Tôi là chỉ huy đoàn Bông Lau đang nói chuyện với anh đây. Các anh chỉ có một con đường đầu hàng, nếu không đêm nay sư đoàn 304 cùng đoàn Bông Lau sẽ tấn công san bằng căn cứ 241. Chúng tôi hoan nghênh các anh về với cách mạng. Yêu cầu tuân thủ nghiêm những quy định sau: 1/ Kéo cờ trắng lên. 2/ Bắt hai tên cố vấn Mỹ cùng ra hàng. 3/ Để nguyên vũ khí phương tiện chiến đấu tại chỗ. Cả chỉ huy và binh sỹ đứng trên mặt đất, xếp hàng đôi đi theo con đường duy nhất tới Đầu Mầu, sẽ có người đón.. Chúng tôi ngừng bắn 30 phút để các anh chấp hành những quy định trên.”.
Đến đây Đính lại nói thảng thốt: “Ba mươi phút chúng tôi không thể đủ thời gian cử người đến từng căn hầm để thuyết phục đơn vị đầu hàng.. Lúc này hệ thống đường dây điện thoại đã bị mảnh đạn pháo băm nát.”. “Vậy cần bao nhiêu”. “Xin ông một tiếng”. “Thôi 45 phút, chấp hành đi. Đúng 13g30 các anh phải ra khỏi hầm”.
Đến 13g30 chưa thấy tên nào xuất hiện trên mặt đất, để răn đe tôi ra lệnh Bông Lau chú ý: Z39 (căn cứ Mai Lộc) 10 phát nạp đạn. Khoảng năm phút sau vẫn chưa thấy tên nào xuất hiện trên mặt đất, tôi hô “Bắn!...” Căn cứ Mai Lộc sụp đổ, bùng cháy dưới cụm đạn tập trung của 240 viên 122mm, 130mm.
Vài phút sau cả ba đài quan sát của trung đoàn và tiểu đoàn đều reo lên và báo về chỉ huy sở, địch hàng rồi. Hàng trăm tên cầm cờ trắng ra khỏi hầm đi về phía Đầu Mầu. Đúng lúc lộn xộn hỗn loạn đó, hai chiếc u-ti-ti đỏ chót như hai con chuồn chuồn ớt xuất hiện từ Đông Hà bay sát đường số 9 leo lên sườn điểm cao 241. Chúng chỉ nâng nhẹ độ cao lướt qua hàng rào đậu xuống trước hầm chỉ huy gần cột cờ. Hai tên cố vấn Mỹ tay xách cặp nhẩy lên máy bay.
Tôi điện báo anh Hoàng Đan, “trực thăng đang cứu cố vấn Mỹ, anh lệnh cho bắn đi”. “Sao cậu không dùng cao xạ (37mm) mà bắn”. “Cao xạ của trung đoàn đều đang ở gần trận địa pháo, có trông thấy đâu mà bắn”. “Khổ quá! (Một tiếng chát đập tay xuống bàn của anh Hoàng Đan), bộ binh xe tăng còn ở sau cậu (sở chỉ huy trung đoàn) làm sao bắn được. Tôi gọi điện cho Đính “tại sao các anh để cố vấn Mỹ chạy thoát. Đính nói ”Lộn xộn, căng thẳng quá, đầu óc tôi mụ rồi, tôi không biết làm thế nào nữa. Thực ra Đính không dám bắt cố vấn Mỹ vì còn phải nghĩ đến vợ con đang còn ở Huế. Chúng xếp hàng trật tự đi về phía Đầu Mầu như quy dịnh. Tôi trao đổi với trung đoàn phó Ngô Đức Nghĩa đưa một bộ phận đi xe xích ATC lên Đầu Mầu tiếp nhận đầu hàng. Ngay đêm đó, trung đoàn phó Thông cùng bộ phận trinh sát ở đài quan sát đã thực hiện ý định của tôi vào căn cứ 241 lấy ra ba thứ: chiếc máy bộ đàm PRC25 mà Đính đã xin hàng, tấm bản đồ chỉ huy và khẩu súng ngắn của Đính.
Ngay sau đó, khoảng 3 giờ chiều tôi được anh Quý Hải từ đài chỉ huy tiểu đoàn 2 báo về ”Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 tại căn cứ Mai Lộc đang tháo chạy toán loạn về phía Cùa, đề nghị cho bắn chặn. Tôi nói không được bắn, Cùa còn đông dân, báo cho trung đoàn 66 vào chiếm lĩnh ngay Mai Lộc.
Khung cảnh chiến trường chiều 2 tháng 4 thật hoành tráng, sau bốn ngày đêm chiến đấu, trung đoàn pháo binh 38 đã cùng sư đoàn bộ binh 304 đập nát tuyến phòng ngự cơ bản chủ yếu của quân đoàn 1 Ngụy, mở toang cánh cửa phía tây để quân đội ta tiếp tục đợt hai chiến dịch tiến công Phượng Hoàng, Đông Hà, Ái Tử, La Vang, Tích Tường.giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.
Thật là một ngày chiến đấu oanh liệt.
Posted 24th April 2011 by haiduongblog
--------
Đây là một thông tin khác, tôi đã gặp cả người viết là BAOLEO và nhân vật HỌC, anh là trinh sát kế toán pháo binh, hiện đã nghỉ hưu tại Hà Nội
BAOLEO-NEW 21/08/07 · 15:51
Về việc này (vụ đồi Tân Lâm-hay còn gọi là đồi 241) bây giờ mới có dịp nói.
Baoleo ở cùng với anh Học-cựu binh thông tin trinh sát pháo binh - đoàn Bông Lau. Bây giờ (21/08/2007) anh Học là trưởng phòng Gía của Viện Kinh Tế-Bộ Xây Dựng-37 Lê Đại Hành.
A Học kể với tớ rằng:
Trước khi đánh đồi Tân Lâm, pháo ta đã giã vào cứ điểm bên cạnh một trận tơi bời hoa lá. Đến mức cứ điểm Tân Lâm đã hồn siêu phách lạc. Ngày hôm sau, pháo ta giã vào Tân Lâm, có mắt pháo tốt nên hỏa lực bắn khá chính xác và lại dầy. Nên nhớ là lúc này bộ binh QGP chưa tấn công. Trung tá Đính chỉ huy trung đoàn 56 ở đây tự nhận thấy không có khả năng chịu đựng thêm hỏa lực của pháo binh QGP nên mới quyết định đầu hàng.
Khi đó, Tr tá Đính gọi điện đài cho QGP, đúng ngay vào máy do anh Học nói ở trên cầm.
Nên nhớ là tần số điện đài của QGP nói chung và của máy của anh Học nói riêng với tần số điện đài của trung đoàn 56-QL VNCH là không lạ gì nhau. Anh Học có kể rằng: nhiều khi quá chán trong việc phá sóng của nhau, hai bên đã chửi nhau rồi giao hẹn: mày để bố mày làm xong thì bố cũng để yên cho mày làm việc.
Khi anh Học nhận được đích thân Tr Tá Đính gọi cho xin qập chỉ huy QGP để xin ngừng bắn (chưa phải là đầu hàng cái rụp đâu nhé), anh Học còn choáng váng chứ chưa nói gì đến các cấp chỉ huy của ta sau khi nhận được báo cáo của tổ thông tin trinh sát pháo.
Vì thế, pháo ta lại tiếp tục dập vào Tân Lâm. Đến lúc này, Tr tá Đính quát như chửi vào máy của anh Học. Đại ý nói rằng: chúng tôi đã chuẩn bị đầu hàng, các ông còn lật lọng bắn vào anh em khi ở ngoài công sự, v.v.. Đến lúc ấy các bố nhà ta mới tin là thật. Và câu chuyện kết thúc như các bác đã biết.
Tuy nhiên, cái baoleo muốn nói thêm ở đây là anh Học là người có công đầu trong việc chắp nối cho Tr tá Đính và cấp trên của ta, dẫn đến việc có câu truyện hài là trung đoàn 56 ngụy phản chiến, thì lại ko có cái khen nào cho việc ấy
Mà trong chiến dịch xuân hè 72 đó, a Học nhà ta lại được huân chương cho một việc ngáp ruồi.
Khi thấy trực thăng địch đáp xuống mỏm yên ngựa trước mặt, a Học thấy ngon quá liền gọi ngay cho pháo nhà táng vào.
Không ngờ sau đó, cụ Cao Văn Khánh điện ngay cho đoàn Bông Lau; thằng nào gọi bắn giải vây cho sở chỉ huy chiến dịch. Tất nhiên là tên của Học được nêu ra. Và Học được thưởng huân chương cho việc ấy.
Nhưng thật ra theo Học: mình có biết sở chỉ huy của các bố ấy ở cóc đâu, thấy ngon thì gọi bắn thôi, ai ngờ..ngáp
Còn trung tá Đính thì những năm 74-75 nằm ở Lai Xá (gần Nhổn- Hà Nội bây giờ). Thỉnh thoảng được gọi hỏi về dự đoán QL VNCH sẽ phản ứng thế nào, đặc biệt là trong chiến dịch mùa xuân 75, cục 2 hay hỏi để có thêm 1 nguồn tham khảo về phản ứng của quân VNCH.
Sau này (năm 8x ), Tr tá Đính được ra quân (vẫn chỉ là trung tá QDNH VN, chứ ko đc thêm hạt nào đâu nhé). Bây giừo, Tr tá Đính đang ở Huế.
Các bác vào Huế bây giừo hởi vẫn còn nhiều người biết để chỉ nhà cho.
Baoleo ở cùng với anh Học-cựu binh thông tin trinh sát pháo binh - đoàn Bông Lau. Bây giờ (21/08/2007) anh Học là trưởng phòng Gía của Viện Kinh Tế-Bộ Xây Dựng-37 Lê Đại Hành.
A Học kể với tớ rằng:
Trước khi đánh đồi Tân Lâm, pháo ta đã giã vào cứ điểm bên cạnh một trận tơi bời hoa lá. Đến mức cứ điểm Tân Lâm đã hồn siêu phách lạc. Ngày hôm sau, pháo ta giã vào Tân Lâm, có mắt pháo tốt nên hỏa lực bắn khá chính xác và lại dầy. Nên nhớ là lúc này bộ binh QGP chưa tấn công. Trung tá Đính chỉ huy trung đoàn 56 ở đây tự nhận thấy không có khả năng chịu đựng thêm hỏa lực của pháo binh QGP nên mới quyết định đầu hàng.
Khi đó, Tr tá Đính gọi điện đài cho QGP, đúng ngay vào máy do anh Học nói ở trên cầm.
Nên nhớ là tần số điện đài của QGP nói chung và của máy của anh Học nói riêng với tần số điện đài của trung đoàn 56-QL VNCH là không lạ gì nhau. Anh Học có kể rằng: nhiều khi quá chán trong việc phá sóng của nhau, hai bên đã chửi nhau rồi giao hẹn: mày để bố mày làm xong thì bố cũng để yên cho mày làm việc.
Khi anh Học nhận được đích thân Tr Tá Đính gọi cho xin qập chỉ huy QGP để xin ngừng bắn (chưa phải là đầu hàng cái rụp đâu nhé), anh Học còn choáng váng chứ chưa nói gì đến các cấp chỉ huy của ta sau khi nhận được báo cáo của tổ thông tin trinh sát pháo.
Vì thế, pháo ta lại tiếp tục dập vào Tân Lâm. Đến lúc này, Tr tá Đính quát như chửi vào máy của anh Học. Đại ý nói rằng: chúng tôi đã chuẩn bị đầu hàng, các ông còn lật lọng bắn vào anh em khi ở ngoài công sự, v.v.. Đến lúc ấy các bố nhà ta mới tin là thật. Và câu chuyện kết thúc như các bác đã biết.
Tuy nhiên, cái baoleo muốn nói thêm ở đây là anh Học là người có công đầu trong việc chắp nối cho Tr tá Đính và cấp trên của ta, dẫn đến việc có câu truyện hài là trung đoàn 56 ngụy phản chiến, thì lại ko có cái khen nào cho việc ấy
Mà trong chiến dịch xuân hè 72 đó, a Học nhà ta lại được huân chương cho một việc ngáp ruồi.
Khi thấy trực thăng địch đáp xuống mỏm yên ngựa trước mặt, a Học thấy ngon quá liền gọi ngay cho pháo nhà táng vào.
Không ngờ sau đó, cụ Cao Văn Khánh điện ngay cho đoàn Bông Lau; thằng nào gọi bắn giải vây cho sở chỉ huy chiến dịch. Tất nhiên là tên của Học được nêu ra. Và Học được thưởng huân chương cho việc ấy.
Nhưng thật ra theo Học: mình có biết sở chỉ huy của các bố ấy ở cóc đâu, thấy ngon thì gọi bắn thôi, ai ngờ..ngáp
Còn trung tá Đính thì những năm 74-75 nằm ở Lai Xá (gần Nhổn- Hà Nội bây giờ). Thỉnh thoảng được gọi hỏi về dự đoán QL VNCH sẽ phản ứng thế nào, đặc biệt là trong chiến dịch mùa xuân 75, cục 2 hay hỏi để có thêm 1 nguồn tham khảo về phản ứng của quân VNCH.
Sau này (năm 8x ), Tr tá Đính được ra quân (vẫn chỉ là trung tá QDNH VN, chứ ko đc thêm hạt nào đâu nhé). Bây giừo, Tr tá Đính đang ở Huế.
Các bác vào Huế bây giừo hởi vẫn còn nhiều người biết để chỉ nhà cho.
Thì ra ba chị là một trong những người làm nên lịch sử.
Trả lờiXóaChỉ là một người lính trong hàng triệu người lính may mắn được về với gia đình thôi anh Từ Nguyên Học ơi
XóaĐáng tự hào!
Trả lờiXóaGiá như có vài hình người và cảnh ở Ural thì tuyệt thật đấy. :)
XóaChào cô Nhung!
Trả lờiXóaTôi tên Sinh, là giáo viên-54 tuổi, gốc Huế nhưng đang sống cả gia đình tại Bình Phước. Ba tôi cùng đơn vị với trung tá Đính và cùng phản chiến với ông ấy. Tôi tin trong bức ảnh trên có cả ba tôi nhưng có lẽ khuất đằng sau. Sau ngày giải phóng, ba tôi đội ba lô mũ cối từ Nghệ An vào Nam như một anh bộ đội. Mẹ tôi và 6 chị em được đoàn tụ với ba-đó là thời khắc hạnh phúc nhất của gia đình tôi!
Nay ba tôi đã không còn nhớ gì nhiều về trận đánh 2/4/72 như trước đây ông thường kể cho tôi nghe (do bị tai nạn xe máy, chấn thương sọ não, ông vẫn còn khoẻ dù đã trên 80, chỉ tội là giảm trí nhớ đến 7-8 phần rồi!). Tôi vẫn luôn thầm cảm ơn Bác Đính vì quyết định sáng suốt của Bác ấy cách đây hơn 40 năm. Ba tôi có kể về việc ông thường xuyên nghe thấy trên bộ đàm (vì ba tôi là lính truyền tin bằng máy PRC-25) về việc liên lạc với quân GP đề đưa đơn vị ra hàng của Bác Đính; về việc 2 cố vấn Mĩ được giải thoát (nhưng theo ông đó là do phía bộ đội ta đồng ý để cho chúng đến cứu với điều kiện không ném bom huỷ diết). Tôi thấy chỗ này chắc không hợp lí mấy nên cũng ít khi tranh luận với Ba.
Tôi đọc được nhiều thông tin về người cha tuyệt vời của cô mà năm xưa đối mặt với Ba tôi nơi chiến trường Quảng Trị. Ba tôi nói 2 ngày hôm đó, ông thuộc luôn 10 điểm trong chính sách của CPCMLT mà bộ đội ta dùng loa phóng thanh đọc liên hồi vào trong căn cứ để thuyết hàng...Ông cũng nói ông là một trong những người ra khỏi căn cứ muộn nhất do phải đi từ trên đỉnh đồi xuống...
CM đã đối xử rất tốt với những người như Bác Đính và Ba tôi. Nhưng nay, gia đình tôi chăng còn giữ bất cứ một thứ giấy tờ gì xác nhận ba tôi là một quân nhân phản chiến cả! Tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của cô trong vấn đề này được không ạ!
Chào anh Sinh,
XóaThưa anh Sinh, tôi thực sự vui mừng vì hồi âm này của anh. Cảm ơn anh.
Tôi xin gửi anh địa chỉ Email của tôi, anh vui lòng gửi một số thông tin để tôi xem có thể làm được gì không ạ.
hothihongnhung@yahoo.com
Kính chúc bác, ba của anh cùng bác gái với gia đình luông được an vui.
Hồ Thị Hồng Nhung
HAI ĐỨA CON CỦA HAI NGƯỜI LÍNH TRÊN HAI CHIẾN TUYẾN...
XóaXin thân chào và cảm ơn BS nhiều nhiều lắm!...
Tôi sinh năm 1959, nếu tôi đoán không nhầm thì BS cũng cỡ tuổi tôi - ngũ thập tri thiên mệnh...Vậy nên tôi mạn phép từ nay được xưng hô là"bạn" với BS nha!
Trước hết, xin cảm ơn bạn đã cho mình địa chỉ email để mình có cơ hội được kết nối cùng bạn ngõ hầu có thể mở thêm cánh cửa đi vaò thế giới của cuộc chiến mà 2 đứa chúng ta chưa kịp tham gia còn hai người cha thì ở hai bên chiến tuyến!
Mình đang là GV Văn của một trường THPT. Mình luôn biết ơn Bác Đính khi ông đã có một QĐ để đời như vậy cách đây 42 năm. Nếu không có QĐ sáng suốt ấy của Bác thì có lẽ minh là một trẻ mồ côi thật rồi... Tất cả những thông tin ít ỏi này đều từ trí nhớ của mình khi ba mình chưa mất trí kể cho nghe. Hiện không có bất cứ một giấy tờ gì còn giữ được cả. Mình chỉ mong được kết nối với nhiều người trong cuộc của cả 2 bên để xâu chuỗi sự việc và lúc về hưu sẽ viết một cái gì đó để tưởng tới cha minh. Rất mong bạn giúp nha!.
Thân chào bạn và hẹn gặp lại!
NGUYỄN VĂN SINH, THÔN 2, XÃ THIỆN HƯNG, HUYỆN BÙ ĐỐP, TỈNH BÌNH PHƯỚC-SDT: 01634.885443
Bạn Hồng Nhung thân mến, tôi là Trần Vân Hạc, nguyên lái xe kéo pháo trung đoàn pháo binh 38 Bông Lau. Hàng năm Hội bạn chiến đấu trung đoàn họp vào 25.11. Năm rồi tôi đi dự và có viết tin về cuộc họp này, mọi người đều nhắc đến bố bạn với sự kính trọng. Bạn cho tôi mail, tôi sẽ gửi tin và ảnh cho bạn. Mail: vanhac.yenbai@gmail.com
Trả lờiXóaThư trao đổi với chị Hồ Thị Hồng Nhung con ông Hồ Văn Duyệt
Trả lờiXóaTôi là Nguyễn Chiến Thắng sinh năm 1950 lúc đó là chiến sỹ kế toán tác xạ của trung đoàn 38 năm 1972. Tôi có biết Ba chị là Đại úy Hồ Văn Duyệt khi đó là phái viên của trường sỹ quan Pháo binh là thầy giáo dạy xạ kích Pháo binh, tôi đã được trao đổi với ông về phương pháp bắn pháo trước giờ nổ súng. Đọc bài viết trên xin góp ý như sau:
1. Bài viết trên không phải là Sư đoàn 324 mà là Sư đoàn 304 do Đại tá Hoàng Đan chỉ huy.
2. Caroon tên của Đại úy Mỹ đã chết tại căn cứ Tân Lâm (cao điểm 241). Người Mỹ đặt tên kỷ niêm sự hy sinh của anh ta chứ không phải dân gian đặt.
3. Lệnh ngừng bắn trên là do đồng chí Cao Sơn chỉ huy pháo binh Bông Lau mới được quyền nếu ba cô viết “Tôi nhắc lại với Trung tá Đính mệnh lệnh của đồng chí Cao Sơn” thì bài viết thành công.
Chị có quyền tự hào về Ba Hồ Văn Duyệt từ trường sỹ quan Pháo binh vào chia lửa với anh em Trung đoàn 38 chúng tôi. Xin trân trọng cảm ơn! Chị có thể trao đổi với tôi qua sđt 0975791330
Kính gửi anh Nguyễn Chiến Thắng,
XóaXin chân thành cảm ơn anh đã dành thời gian đọc và góp ý cho bài viết chia xẻ của em (xin được xưng hô là "em" ạ)ở đây ạ. Thật là vui mừng vì có được sự quan tâm của người đọc và đặc biệt là người trong cuộc như anh Thắng.
Bài viết nguyên bản của ba em (và một số thông tin khác liên quan đến ba em)em đã xin một góc nhỏ và đăng trong trang web "Dựng nước và giữ nước" http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,24222.0.html. Em cũng mong chia xẻ và nhận được nhiều thông tin hơn.
Bên web "Dựng nước..." các anh cũng góp ý như anh, về số sư đoàn, em cũng biết vậy nhưng vẫn để nguyên như bài đăng gốc. Em cũng không rõ do ba em hay do lỗi đánh máy (vì ba em nhờ người ở thư viện Nha Trang đánh máy).
Em cũng hiểu là lệnh ngừng bắn phải do chỉ huy chiến trường vì ba em đã viết ba em là người " may mắn chứng kiến..." và ở vào vị trí ấy thay người ngày chót đã vắng mặt.
Cho đến bây giờ em vẫn thấy điều tốt đẹp nhất với em và gia đình là có ba bên cạnh đến ngày hôm nay từ nơi mà ba em bảo "bom và đạn pháo làm đất tơi ra như bột" và nhiều, rất nhiều người đã mãi nằm lại...
Em rất biết ơn anh đã chia xẻ trên trang blog này của em.
Trân trọng.
Hồ Thị Hồng Nhung
Thư chia sẻ với con trai người lính
Trả lờiXóaThông tin trung đoàn 56 – 1972
Xin chia sẻ với anh Sinh điều mà Hồng Nhung không thể trả lời anh được. Tôi đã xem kỹ bức ảnh người sĩ quan bắt tay Bác Hồ Văn Duyệt có thể là trung tá Vĩnh Phong, đứng giữa hai người là Trung tá Đính. Ba anh Sinh đứng phía sau vì đông quá khoảng 600 người nên khó thấy. Bác Duyệt may mắn có được giây phút hiếm hoi. Lúc đó cả trung đoàn có một máy ảnh của Trinh sát chụp ảnh Lương Đức Thắng và máy của nhà báo Nguyễn Thắng nên không biết là ảnh của ai. Lương Đức Thắng đã hy sinh sau 81 ngày đêm chiến đấu còn nhà báo Nguyễn Thắng cũng đã mất.
Quan điểm của ba anh Sinh về Mỹ không ném bom hủy diệt căn cứ Caroll để đổi lấy 2 cố vấn Mỹ là không đúng. Lúc đó tôi là chiến sĩ tác xạ của Trung đoàn nên túc trực bên cạnh bàn làm việc của Trung đoàn trưởng Cao Sơn và tham mưu trưởng Lê Nhĩ. Tôi có nghe rõ lệnh của sư trưởng Hoàng Đan cho bắn 2 máy bay đến cứu cố vấn Mỹ. Đồng chí Cao Sơn có báo cáo pháo cao xạ 37 ly của đơn vị cách căn cứ 241 (Tân Lâm) khoảng 10km không bắn được. Không thể dùng pháo mặt đất bắn sẽ nguy hiểm đến tính mạng của anh em binh sĩ đã treo cờ trắng ra với cách mạng. Còn Mỹ và Việt Nam cộng hòa bị bất ngờ, họ không tin Trung tá Đính người hùng của Hắc Báo lại ra hàng, đến khi hai cố vấn Mỹ về đến Huế thì đã muộn, khi họ ném bom hủy diệt thì trung đoàn 56 đã được đưa đến khu vực an toàn của vùng giải phóng. Trung đoàn 38 đã lấy ra 3 khẩu vua chiến trường, 4 khẩu 155 và 600 viên đạn trang bị cho đại đội 6 tiểu đoàn 2.
Còn dùng từ “phản chiến” lúc đó theo yêu cầu của cách mạng để động viên khích lệ phía bên kia Việt Nam cộng hòa bỏ ngũ về với cách mạng. Thực tế của vấn đề là: Trung tá Đính dưới hỏa lực mạnh mẽ của trung đoàn 38 Pháo binh Bông lau, sự vây hãm của sư đoàn 304. Xin viện binh không được. Nhìn thấy rõ sự thất bại, để đảm bảo tính mạng của anh em binh sỹ trung đoàn 56 ông đã chủ động liên lạc với chỉ huy pháo binh Bông Lau ngừng bắn để ra hàng. Nếu như hôm đó trung đoàn 56 bắt 2 cố vấn Mỹ hoặc quay pháo bắn vào Ái Tử thì quả là phản chiến được ghi nhận chiến công rực rỡ.
Xin được chia sẻ với ba anh, bác Duyệt và cả tôi nữa đều là người lính Quảng Trị 1972 “còn sống là lãi rồi”chẳng đòi hỏi them gì nữa. Chào thân ái!
Nguyễn Chiến Thắng
Cảm ơn chú Thắng nhiều lắm!
Xóa2. Chú Thắng à! Cháu 55 tuổi, hiện đang dạy học, chẳng phải lãnh đạo hay quản lí, cũng chẳng có Đảng, Đoàn gì. Cháu được vào ĐH như một phép màu vào cái thời mà như chú biết đó - lí lịch ba đời, nhất là của ba cháu là không tốt tí nào?!?!
Trả lờiXóaCháu thường xuyên thắc mắc tại sao một người như Bác Đính và ba cháu (lúc ra hàng đã ở tuổi tứ tuần), tức là họ nhận thức rất rõ về bản chất của cuộc chiến, họ biết rất rõ đâu là chính nghĩa và thêm một điều là họ cũng rất dũng cảm khi đưa ra quyết định và thực hiện đến cùng quyết định ấy bằng tất cả sự sáng suốt về tinh thần và sự khỏe mạnh về thể chất!
Có lẽ chú còn nhớ Nguyễn Trãi năm 1427 đã bằng mọi cách cùng Lê Lợi thuyết hàng Vương Thông ở cái thành trì cuối cùng và kiên cố nhất của quân Minh. Chú cũng chắc là có nhớ về việc Vương Thông dũng cảm quyết định ra hàng, đem theo sinh mạng hàng ngàn người TQ vẹn toàn hồi hương từ sự nhân nghĩa của vua Lê! mặc dù biết chắc khi về nước vua Minh sẽ trừng phạt nặng nề (Minh sử ghi lại: Vương Thông bị xử tội chết, sau xét công lao trước đó, hạ án xuống tước hết tước vị, trở thành dân thường...), Vương Thông Xưa, Phạm Văn Đính-năm 72... đâu kém anh hùng so với những vị chỉ huy dũng cảm để quân lính mình hi sinh đến người cuối cùng! Đó là chưa kể việc Bác Đính thuyết hàng cấp dưới của mình là việc làm hết sức nguy hiểm cho bản thân Bác ấy vì căn cứ Caroll là một cứ điểm có rất nhiều binh chủng cùng hợp đồng tác chiến, trong đó có chủng dù, thiết giáp...là số lính nam bộ rất hung hăng. Chú có biết rằng khi ra đến nơi tập kết, chúng còn dấu theo súng và bắn chết mấy cán bộ của ta không? Ba cháu đã tận mắt chứng kiến việc ấy, tất nhiên là sau đó chúng lập tức bị xử tử. Bác Đính không bị bọn này tấn công trong căn cứ là quá may mắn nếu không muốn nói Bác ấy có uy tín cao đối với thuộc cấp!
Cháu thật thất vọng khi chú nghĩ về những người như Bác Đính và ba cháu chỉ ra hàng bởi bước đường cùng(!) , lại còn đòi hỏi Bác Đính phải quay súng bắn lại đồng đội của bác ấy, bắt cố vấn Mĩ...thi mới gọi là phản chiến(?). Đòi hỏi của Chú thật là phi lí và có phần phi nhân bản! Cháu có đọc về tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, - người có biệt danh là Điệp viên hoàn hảo trong thế kỉ XX - ông ta đã không bắt BS Trần Kim Tuyến, một trùm đặc vụ CIA của Mĩ tại SGòn trong ngày 30/4/75 mà lại còn giúp ông tuyến đến được với chuyến trực thăng cuối cùng trên nóc Tòa Đại sứ Mĩ ở SG. Sau này chính ông Ẩn bị khiển trách về việc này, Chú biết ông ấy đã trả lời cấp trên của mình như thế nào không? : "Tôi không làm được điều đó vì ông Tuyến là bạn thân của tôi suốt gần 20 năm!".
Ra thế! Chiến tranh cũng có thể biến bạn thành thù theo quan niệm của chú Thắng, còn với những người cao cả như Bác Ẩn, Bác Đính thì họ không thể bắn vào bạn mình được Chú à! Cháu tin chắc ở tuổi chú và với quá khứ hào hùng của chú, chú cứ việc tự hào về bản thân nhưng nếu là người minh tuệ thì chú nên tìm đọc "Điệp viên hoàn hảo" về tướng ẨN để có thể học hỏi đôi chút về con người vĩ đại này!
Cháu rất thích triết lí "còn sống là lãi rồi" của Chú nhưng đó là mới chỉ một cá thể sống thôi! Còn việc làm của Bác Đính thì lại cứu sống cả hơn 600 sinh mạng, chưa kể nếu họ tuyên bố tử thủ chờ chi viện thì cháu tin chắc chiến sĩ kế toán trinh sát như chú hoặc hạ sĩ truyền tin như ba cháu không tìm được xác ở Caroll đâu chú nhỉ! Làm gì còn có lãi để mà triết lí???
Quá khứ nó có giá trị riêng của mình. "Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào bạn bằng Đại bác!" (Zammatop-nhà văn Nga).
Vài lời chia sẻ cùng chú - mong rằng không bị cho là phạm thượng!./.
Cảm ơn ý kiến thẳng thắn của anh Sinh. Tôi hy vọng chú Thắng sẽ không nghĩ rằng lớp con cháu nói thẳng quan điểm của mình như anh Sinh đã làm là phạm thượng. Đúng ra chúng ta cần nhìn nhận khách quan, đúng bản chất của cuộc chiến từ rất lâu rồi.
XóaTrên chiến trường mỗi người lính phải làm tròn bổn phận của mình, cho dù họ đứng ở phía bên nào. Thống chế Erwin Rommel ( Đức quốc xã) vẫn được cả hai phía kính trọng vì tài chỉ huy, lòng dũng cảm và tấm lòng dành cho binh sỹ của ông. Thật khó mà nói chuyện hoà hợp, hoà giải nếu chúng ta không biết tôn trọng đối thủ. Như câu chuyện kể lại chỉ có hơn 600 binh sỹ theo Trung tá Đính ra hàng, như thế thì chắc cũng có không ít hơn 600 binh sỹ đã không lựa chọn như ông (Camp Carroll có khoảng 1.500 người). Họ đã vượt vòng vây để về tiếp tục chiến đấu trong thành phần ARVN đối đầu với PAVN và họ cũng là những người lính đáng được tôn trọng.
Sự thật là sau đó ARVN đã phản công và chiếm lại hầu hết các cứ điểm mà PAVN đã giành được trong giai đoạn đầu của cuộc tiến công (kể cả Camp Carroll). Sau khi kết thúc chiến dịch, cả hai bên đều thiệt hại nặng nề và nhân dân Việt nam thì thiệt hại gấp đôi (rất đau lòng nhưng đó là sự thật).
Một lần nữa cảm ơn anh Sinh.
Tôi đồng ý với "Nặc danh" là "Trên chiến trường mỗi người lính phải làm tròn bổn phận của mình, cho dù họ đứng ở phía bên nào.".
XóaBổn phận ấy theo tôi nghĩ Đúng/sai là "tùy duyên" và cũng là tương đối.
Trong trường hợp cụ thể ở căn cứ Carron / Tân Lâm này, Đặt 600 người lính dưới hỏa lực pháo, mà hỏa lực ấy đã xóa sổ căn cứ Đầu Mầu, nay đang dồn vào Caroon, 2 cố vấn Mỹ lên trực thăng rút, như vậy chấp nhận cho 600 người lính nữaở lại biến thành "Đồi Thịt Băm", vào chỗ chết chắc chắn tức là thêm 600 gia đình tang thương không kể xiết nỗi thống khổ. Tôi cho rằng Trung Tá Đính đã can đảm.
Thôi thì tùy ai phán xét. Quảng Trị là mảnh đất đau thương nhất trong cuộc chiến.
Nói ra thành thật ý nghĩ của mình cũng là tốt bất kể nhận thức thế nào.
Lời tuyên bố của một vài người bên này hay bên kia đều không đại diện nhận thức của số đông. Ngay cả số đông cũng có lúc sai. Tất cả đều tương đối, nhưng một cuộc đời là có thật và nó thật quí, thật ngắn ngủi với người thân, bè bạn, cộng đồng. Chúng ta có tuổi, trải nghiệm ý thức rõ điều này phải không ạ.
Dân tộc chắc chắn đã học ra bài học lịch sử lớn ngút ngàn xương máu đồng bào.
Gia đình họ tộc tôi, cả hai phía khi có dịp gặp nhau thường ngồi trong lặng lẽ và đau thương chỉ nghĩ rằng: Nghiệp chướng dân tộc quá sức chịu đựng.
Tôi tin rằng trí tuệ sáng suốt tức là đã học ra bài học Bắc - Nam nồi da nấu thịt và sẽ không bao giờ mắc lại sai lầm này nữa.
Đáng thương cho cha anh ta, cho ta chẳng được sống yên lành, cho đến nhiều thế hệ sau chưa ngưng than khóc.
Vậy tôi chỉ nghĩ, nay làm được gì lợi lạc cho bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội thì làm. Oán thù trước hết đốt cháy tâm can mình...
Tôi mỗi lần ngồi viết về cuộc chiến này lại đau thắt ngực và mệt bải hoải.
Thành thật chúc các anh cùng thân quyến thường được an lạc.
Nguyện cho mọi gia đình buông xuống gánh nặng đau thương và sống trong thực tai được an lành.
H. Nhung
Cảm ơn bạn Nhung đã trả lời "Nặc danh". Tôi cũng sinh ra ở miền Bắc và từ lâu đã cố gắng nhìn cuộc chiến này (tôi thích dùng tên gọi Vietnam War hơn) , nỗi đau của dân tộc Việt nam, một cách khách quan nhất.
XóaRất đáng tiếc, nhưng tôi phải thừa nhận rằng hơn 40 năm sau không ít những người ở tuổi cha, chú chúng ta như chú Thắng (cựu binh sỹ trung đoàn 38) vẫn còn nhìn nhận khá khắt khe, một chiều về cuộc chiến này, nhất là những ai đã từng tham gia PAVN hoặc VC. Điều đó lý giải vì sao vấn đề hoà hợp, hoà giải đến nay ít có kết quả hoặc có chăng chỉ là biện pháp tuyên truyền, không thực chất.
Bác Duyệt và trung tá Đính đã là nhân chứng cho một sự kiện lịch sử quan trọng, nhờ nó mà bạn Sinh và nhiều bạn nam, nữ khác nữa, cả trong Nam và ngoài Bắc không trở thành trẻ mồ côi. Nếu trung tá Đính lựa chọn tử thủ như bản tính dũng cảm, can trường mà ông đã thể hiện cho đến thời điểm đó trong ARVN, việc chiếm Camp Carroll cũng sẽ không hề đơn giản, như cách chú Thắng đã viết "thấy rõ sự thất bại". Tuy nhiên, trung tá Đính đã không lựa chọn như vậy và hàng ngàn sinh mạng người Việt thuộc cả hai phía được cứu thoát.
Quyết định ấy cùng với việc trung tá Đính defect qua PAVN (được giữ nguyên cấp bậc trung tá) và việc đi thuyết phục các bạn đồng ngũ khác trong ARVN defect sẽ day dứt ông suốt quãng đời còn lại, tôi tin là như thế.
Đến thời điểm này, sau khi trung tá Đính đã qua đời được nhiều năm vẫn chưa có một tài liệu tiếng Việt nghiêm túc nào viết về sự kiện này, kể cả một cuốn Hồi ký của chính bản thân ông.
Có thể ý nghĩ của tôi là hão huyền nhưng tôi cứ hy vọng, biết đâu vài năm 03, 05, 07 năm...khi việc kiểm duyệt ở Việt nam bớt căng thẳng, gia đình trung tá Đính sẽ cho xuất bản chính cuốn Hồi ký của ông và nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ hơn những góc khuất đằng sau quyết định của một chiến binh từng được coi là "Young Lion" trong ARVN.
Một lần nữa xin cảm ơn bạn Hồng Nhung và bạn Sinh.
OK - anh Sinh,con người là vốn quí nhất,còn ta với thù cũng do các triết lý thắng thua của các chủ thuyết đặt ra thôi,không bắn vào đồng loại,bạn ta...đó là nhân văn cao cả,là người Việt cớ gì ta lại bắn vào nhau,có thể ở hai phía thù địch là do hoàn cảnh xã hội mang tới,chứ ta đâu có quyền chọn. Mọi người chỉ có mong ước được sống ấm no,hạnh phúc...và một nước VIỆT hùng cường.
Trả lờiXóaThật tự hào về Ba Duyệt,Ba là người làm nên lịch sử,Cảm ơn Tác giả nào đó đã ghi lại được kgoanhr khắc tuyệt vời ,là minh chứng lịch sử,mình đọc những bài này mà cảm động về những người lính ở 2 chiến tuyến,rất cảm thông và chia sẻ,nhưng có một có một điều gì đó hơi đắng lòng về sự thật của thời bình...Chúc mừng HN có thêm nhiều tư liệu ,thông tin và bạn tốt,Kính chúc B khỏe mạnh trường thọ.Chúc mẹ cùng GĐ hạnh phúc bên Ba.
Trả lờiXóaTrong cuộc chiến Ý thức hệ do một số nhóm người phát động và thực hiện, khiến cho người dân hai miền Nam - Bắc, Việt Nam chìm trong máu lửa. May mắn thay, ba Duyệt chỉ là một phần vô cùng nhỏ bé đã thành công trong việc góp phần vào việc làm giảm xương máu binh sĩ, giảm sự ly biệt đau thương của thân quyến, bè bạn... của đồng bào dân tộc Việt Nam bạn Lê Thị Lan a à. Và cái Nhân - Quả thiện ấy, khi hàng trăm ngàn binh sĩ và dân thường thương vong, ba Duyệt đã lành lặn trở về cùng gia đình. Lành thay.
XóaGửi anh Long,
Trả lờiXóaCảm ơn anh đã đọc những chia sẻ của HN. Thôi thì quan điểm nhận thức của anh, anh theo đuổi. Tôi sợ người Việt giết nhau, thù nhau, ghét nhau, nỗi sợ không biết khi nào mới hết vì những điều này.
Thành thật chúc anh và gia đình luôn được an vui trong lành.
Tôi đã dành 2 năm đọc và xem tài liệu trên mạng của các bên, của quân đội Mỹ được phép công bố. Tôi cũng đọc rất nhiều những thứ khó mà đọc. Những gì gia đình nội ngoại tôi trải qua thì chỉ tôi biết.
Trả lờiXóaĐức Phật dạy: "Ngày hôm qua đã qua. Ngày mai còn chưa tới. Chỉ có thực tại này. Trọn vẹn và vô ngã. Là phúc lành cao thượng". Và "Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây"
Chúc anh và gia đình được an lạc
Mình đọc hầu hết bài viết của cô Nhung về ba Duyệt và về cuộc chiến-nhất là trận 241(Caroll) 1972. Vừa qua, mình đã kết nối được với gia đình của chú Phạm Văn Đính hiện ở Q7, TpHCM. Chú Đính đã qua đời, mộ nằm ở Huế...
XóaNếu cô Nhung có thể kết nối với mình và các cô con gái của chú Đính thì thật là thú vị! Giữa chúng ta vẫn có một mẫu số chung đấy!
ĐT của mình là: 0968937361 (NGUYỄN VĂN SINH-Bình Dương)
Cảm ơn cô đã hồi âm với lời lẽ thật nhân văn.
Trả lờiXóaTôi cũng là một Phật Tử, và là phụ nữ, cô ạ.
Mẹ tôi cùng đứa em 10 tuổi đã chết dưới trận mưa pháo trên đoạn đường này. Năm ấy, tôi 14 tuổi, ẵm đứa em 3 tuổi bị lạc phía sau nên thoát chết.
Đau buồn vẫn đeo đẳng ở những ngày giỗ chạp của gia đình.
Tôi muốn tâm sự với cô rất nhiều...Nhưng sợ làm hư trang blog của cô.
Thôi thì, chỉ biết cầu chúc gia đình cô được nhiều hạnh phúc, và may mắn trong năm mới.
Thành thật cảm ơn chị
Trả lờiXóaChúc gia đình chị năm mới mạnh khỏe và an vui
Đọc hồi âm của các bạn trong blog này, tôi rất cảm động. Nếu tất cả chúng ta có một cái nhìn nhân bản như vậy thì VN đã không xảy ra cuộc chiến tương tàn. Nhưng đã hơn 43 năm qua, vẫn còn nhiều người quá khích nhân danh chủ nghĩa chửi bới lẫn nhau. Tại sao tất cả chúng ta không phân biệt chính kiến cùng ngồi lại với nhau tìm ra một con đường trung đạo để đưa đất nước ra khỏi cơn cùng khổ của ngày hôm nay. Để chúng ta không còn nhìn thấy người bán dạo, không còn cảnh kẻ buôn thúng bán bưng chạy ăn từng bữa. Mong lắm thay
Trả lờiXóaTôi hoàn toàn đồng ý với bạn Nặc danh 07:04 13 tháng 7, 201
XóaNếu người VN thông minh thì sẽ không xảy ra cuộc chiến hai miền Bắc Nam vừa qua. Nếu chúng ta có nhân bản thì đã ngồi với nhau tìm con đường thống nhất mà không phải tốn máu xương, sinh mạng của gần 3 triệu người cả hai phía (giống như Đông và Tây Đức vậy). Còn nữa, nếu chúng ta có lòng vị tha thì mỗi năm đến ngày 30/4 thì nên tỏ lòng sám hối cho những người đã chết cả 2 phía. Tiếc rằng, cho đến giờ phút này...Ngày 30/4 chỉ là ngày lễ, là ngày ăn mừng chiến thắng...Và dân chúng được khuyến khích ăn chơi. Thống nhất rồi mà sao lòng dân vẫn còn ly tán. Nhân dân ta vẫn còn nghèo. Biên cương vẫn còn bị nước láng giềng ức hiếp. Càng nghĩ càng buồn quý vị ạ
Tôi là người sinh ra khi vẫn còn chiến tranh (1974) chưa từng nếm bom đạn, nhưng cũng đã được cảm nhận của hơi thở chiến tranh năm 1979, mặc dù cách cuộc chiến BGPB khoảng 300km, không khí chiến tranh cũng đặc kín xung quanh, với các đợt còi hụ di tản, các hầm hố cá nhân được đào ngay trước sân của khu tập thể CBCNVC cơ quan bố mẹ tôi, chúng tôi, những đứa trẻ 4-5 tuổi ngơ ngác khóc thét khi bị bố bồng mẹ bế chạy đi chạy lại lúc 4-5 giờ sáng cho cuộc diễn tập di tản.Đó mới là diễn tập, không có bom rơi pháo nổ, đạn nhọn chiu chíu xung quanh.Chiến tranh là nỗi sợ cho cả nhân loại, cho cả các bên thù địch, vì vậy trong chiến tranh, mà có những người như bác Đính, bác Duyệt, cứu mạng cho 600 con người bên VNCH, cũng có thể cứu mạng cho từng ấy hoặc hơn bên phía QĐGPMN, nếu như 1.500 con người ấy tử thủ (1.500 ngừng bắn).Vậy là tại thời điểm ấy, họ đã giữ được mạng sống cho hơn 1 nghìn người,những người con, người cha, người chồng, người yêu...sẽ lại được trở về.Chỉ có những người, những chỉ huy mất nhân tính, mới không nghĩ đến điều này.Trong bão lữa đạn rơi, chiến trường tan hoang, thịt xương nát bấy, mới thấy điều này có ý nghĩa như thế nào.Cảm ơn các bác đã cho thấy sự nhân văn vẫn tồn tại trong con người Việt.
Trả lờiXóaChị cho phép em đem bài này về blog của mình nhé. Cám ơn chị nhiều.
Trả lờiXóaKính thưa các anh, chị, em
Trả lờiXóaKhông hiểu vì lý do nào đó mà một số thông tin các ace viết lại bị ẩn nên hôm nay tôi mới được đọc và đưa lên
Trải nghiệm đau thương, đặc biệt cao nhất là tử biệt sinh ly là nỗi đau rất khó lành. Ai đã từng trải qua điều này với người thân yêu ruột thịt của mình không dễ gì nguôi ngoai hay khoan dung cho kẻ gây ra thống khổ này
Tùy vào tấm tình từng người. Không thể trách sự hận thù không nguôi. Tôi hiểu được điều này và càng xót thương bởi lẽ "bởi chăng hay ghét cũng là hay thương". Những người đau đớn không nguôi vì mất mát người thân, chia lìa... càng cần được thấu hiểu. Chả có cách gì hơn, tôi thực lòng ước mong cho những ai phải mang nỗi đau đớn đến thù hận sẽ được hộ độ mà hóa giải oán thù ngay trong kiếp này. Sống cùng sân hận bi thương cũng là sống trong địa ngục trần gian. Cuộc sống chỉ gói gọn trong hơi thở. Ngắn ngủi trôi qua nhanh, chưa kịp dãi bày yêu thương vì bị đau buồn che khuất.
Cản ơn tất cả sự chia sẻ.
Cảm ơn cả những lời mắng chửi rất nhiều. Nếu nhờ mắng chửi mà quí vị trút bớt oán thù thì thật tốt cho nỗi đau của quí vị
Tự sâu thẳm lòng mình, tôi chia sẻ sự mất mát lớn nhất của anh chị em
Cũng chia sẻ với anh chị em nỗi thống khổ trong lòng tôi chưa hề được an ủi vì nay trong thời bình, dân tộc ta vẫn sống trong nghèo nàn, lạc hậu, nhiều tai tiếng, phẩm giá bị coi nhẹ
Ước mong quí vị nương tựa được vào chính mình mà thoát khổ
Với trọn vẹn lòng thương
Tôi nguyên là một sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trả lờiXóaLà một người Việt Nam, tôi rất biết ơn trung tá Phạm Văn Đính đã đưa quân ra đầu hàng QGP. Anh Đính đã cứu được rất nhiều người ở cả hai trận tuyến và giúp cho gia đình những người lính VNCH sau năm 1975 có được cuộc sống tốt đẹp hơn do họ không bị gắn cái mác con cái "ngụy quân, ngụy quyền". Các anh/chị đã trải qua những ngày tháng sau năm 1975 ở miền Nam chấc hiểu những điều tôi nói.
Tôi nghĩ Trung tá Phạm Văn Đính sau này không ân hận vì quyết định của mình mà ông luôn tự hào vì quyết định đó. Nhờ ông mà bao nhiêu người, kể cả bản thân ông, đã sống sót về với gia đình, và gia đình họ đã có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi cho rằng nếu ông có chọn hy sinh để bảo vệ chiến tuyến cùng các đồng đội của mình thì VNCH cuối cùng cũng vẫn thua. Với danh dự của một người lính, anh Đính đã rất đúng khi để cố vấn Mỹ và những sỹ quan chỉ huy không đồng ý đầu hàng rời đi.
Tôi cũng muốn lưu ý với các bạn rằng cuộc chiến sau năm 1945, cụ thể là năm 1946, là ngoài nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Pháp đã ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, chấp nhận Việt Nam là một nước độc lập nằm trong khối Liên hiệp Pháp, nhưng cũng không tránh được chiến tranh. Việc không thi hành Hiệp định Geneve, không có tổng tuyển cử năm 1956, đã làm chiến tranh kéo dài tới 1975.
Gia tộc tôi cũng có nhiều người ở hai bên chiến tuyến, và có nhiều người đang định cư ở Mỹ. Ngay sau năm 1975, mặc dù cũng có những ý kiến chế nhạo "cộng sản Bắc Việt" của họ hàng trong Sài Gòn, nhưng gia tộc tôi rất yêu thương nhau. Giờ đây đất nước đã hòa bình, và những người anh em ở hai chiến tuyến đã ngồi lại với nhau. Chúng ta cần xóa bỏ mọi hận thù, yêu thương nhau và cùng nhau xây dựng một đất nước Việt Nam tốt đẹp, vì chúng ta và con cháu chúng ta.
Tôi là một người được sinh ra tại miền Bắc, khi hiệp định Paris 1973 đã được ký kết. Bố tôi là một giáo viên đại học đã nhập ngũ năm 1972. Nếu như sau hòa bình 1975, bố tôi cũng là một liệt sỹ như bao đồng đội khác thì tôi sẽ là một người con không biết mặt cha. Nhưng may mắn thay, bố tôi đã trở về (mặc dù năm 1974 gia đình tôi đã nhận được giấy báo tử của bố tôi). Với tôi, chiến tranh được biết qua phim ảnh, sách báo, internet và qua lời kể của những cựu chiến binh, của những người đã đi qua cuộc chiến..., và hậu quả cuộc sống những năm sau chiến tranh mà tôi trực tiếp phải trải qua, sinh tồn, trưởng thành. Chiến tranh quả là đau thương, khốc liệt. Tôi cảm thấy mình vẫn còn may mắn vì còn cảm giác được chiến tranh, chứ những người trong cuộc, nhất là những người lính trực tiếp, tôi sợ họ đã bị sự khốc liệt của cuộc chiến làm tê liệt hết rồi. Bố tôi là một thủ khoa cả đầu vào, đấu ra đại học, có khả năng học thuộc lòng cả một cuốn từ điển hàng trăm trang... nhưng sau cuộc chiến ông trở thành một người nghễnh ngãng, quên quên, nhớ nhớ. Tất cả những việc xảy ra hôm nay, ngày mai sẽ được ông kể thành một truyện khác. Chưa kể, hàng loạt bệnh tật nặng do di chứng chiến tranh gây ra mà ông vẫn phải chịu đựng, phải vượt qua hàng ngày... Vì thế, ông không giúp gì được nhiều cho vợ con. Gia đình tôi tồn tại và phát triển được chủ yếu nhờ sự cố gắng tần tảo đầy nghị lực và yêu thương của mẹ. Tuy vậy, gia đình tôi vẫn cảm thấy thuộc diện may mắn vì chúng tôi còn có bố. Chiến tranh may mắn đã qua đi, mọi đau thương, thù hận hãy cho nó lắng xuống, ngủ yên vì người thắng hay kẻ thua đều bị mất mát. Tôi mong rằng đất nước mãi mãi được hòa bình, nhà nhà được sống yên vui, đoàn tụ. Là người Việt Nam, chúng ta hãy làm điều gì cho mọi người yêu thương, đoàn kết, đồng lòng kiến quốc để con cháu chúng ta mai sau được yên hưởng thái bình, ấm no hạnh phúc, được "ngẩng cao đầu" khi đi ra thế giới.
Trả lờiXóaSuy nghĩ của bạn về qúa khứ...thật là tuyệt vời!
Xóa